Thơ Đoàn Văn Cừ

Đoàn Văn Cừ xuất hiện trong Phong trào Thơ mới và viết về thôn quê với bút pháp rất riêng: tả chân. Hoài Thanh và Hoài Chân đã nhận xét: “Những bức tranh trong thơ Đoàn Văn Cừ không phải chỉ đơn sơ vài nét như những bức tranh xưa của Á Đông. Bức tranh nào cũng đầy dẫy sự sống và rộn rịp những hình sắc tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới linh hoạt”. Những cảnh quê như Đám hội, Đám cưới mùa xuân,… và đặc biệt là phiên Chợ Tết nông thôn của ông vẫn sẽ còn mãi với thời gian.

Sau đây, Blog Chùm Thơ mời các bạn cùng xem qua 10 bài thơ hay và được yêu thích nhất của của nhà thơ Đoàn Văn Cừ.

1, Chợ Tết

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh,
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh,
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.
Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc;
Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon,
Vài cụ già chống gậy bước lom khom,
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ.
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ,
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu,
Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.

Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa,
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa,
Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh,
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh.
Người mua bán ra vào đầy cổng chợ.
Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ,
Để lắng nghe người khách nói bô bô.
Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ,
Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán.
Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản,
Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm,
Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ,
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau.
Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu,
Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu.
Áo cụ lý bị người chen sấn kéo,
Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra.
Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà,
Quên cả chị bên đường đang đứng gọi.
Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi,
Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa.
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha.
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết,
Con gà trống mào thâm như cục tiết,
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.

Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm,
Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh,
Trên con đường đi các làng hẻo lánh,
Những người quê lũ lượt trở ra về.
Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê,
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.

1939

2, Năm Mới

Cây đèn bóng dựng dưới trời đêm
Chiếc vỏ chai cưa giả chụp đèn
Ngọn lửa trong mưa vờn lấp loáng
Gió lùa chùm khánh động “leng keng”

Vài lá đa xanh giắt mái nhà
Để cầu phúc lộc đến đề đa
Ngoài sân ấn quyết trừ ma quỷ
Vôi vẽ hình tên nỏ trắng loà

Bên vách hòm gian đặt cúng thờ
Bát hương nõn chuối cắm lơ thơ
Vỉ buồm gạo nếp “tay giềng” họ
Thịt lợn đầy mâm thái miếng to

Cây nêu – dấu Phật đuổi hung thần
Cổ mũ trên bàn cúng Táo quân
Mùng bốn Tết xong làm lễ tiễn
Giấy tiền ông vải đốt đầy sân

3, Giờ Quốc Sử

Những buổi sáng, vừng hồng le lói chiếu
Trên non sông, làng mạc, ruộng đồng quê,
Chúng tôi ngồi yên lặng, lắng tai nghe
Tiếng thầy giảng suốt trong giờ quốc sử.
Thầy tôi bảo: “Các em nên nhớ rõ,
Nước chúng ta là một nước vinh quang.
Bao anh hùng thuở trước của giang san,
Đã đổ máu vì lợi quyền dân tộc.
Các em phải đêm ngày chăm chỉ học,
Để sau này nối được chí tiền nhân.
Ta chắc rằng, sau một cuộc xoay vần,
Dân tộc Việt sẽ là dân hùng liệt.
Ta tin tưởng không bao giờ tiêu diệt,
Giống anh hùng trên sông núi Việt Nam
Bên những trang lịch sử bốn ngàn năm
Đầy chiến thắng, đầy vinh quang, máu thắm…”

4, Đường Về Quê Mẹ

U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân,
Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần,
Lại dẫn chúng tôi về nhận họ
Bên miền quê ngoại của hai thân.

Tôi nhớ đi qua những rặng đề,
Những dòng sông trắng lượn ven đê.
Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp,
Người xới cà, ngô rộn bốn bề.

Thúng cắp bên hông, nón đội đầu,
Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu
Trông u chẳng khác thời con gái
Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au.

Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng,
Đoàn người về ấp gánh khoai lang,
Trời xanh cò trắng bay từng lớp,
Xóm chợ lều phơi xác lá bàng.

Tà áo nâu in giữa cánh đồng,
Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng.
Bóng u hay bóng người thôn nữ
Cúi nón mang đi cặp má hồng.

Tới đường làng gặp những người quen.
Ai cũng khen u nết thảo hiền,
Dẫu phải theo chồng thân phận gái
Đường về quê mẹ vẫn không quên.

1942

5, Tết Quê Bà

Bà tôi ở một túp nhà tre.
Có một hàng cau chạy trước hè,
Một mảnh vườn bên rào giậu nứa.
Xuân về hoa cải nở vàng hoe.

Gạo nếp ngày xuân gói bánh chưng,
Cả đêm cuối chạp nướng than hồng.
Quần đào, áo đỏ, tranh gà lợn,
Cơm tám, dưa hành, thịt mỡ đông.

6, Trăng Hè

Tiếng võng trong nhà kẽo kẹt đưa,
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ,
Bóng cây lơi lả bên hàng dậu,
Đêm văng, người im, cảnh lặng tờ.

Ông lão nằm chơi ở giữa sân,
Tàu cau lấp loáng ánh trăng ngân.
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng,
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân.

Bên giếng, dăm cô gái xứ quê
Từng đàn vui vẻ rủ nhau về,
Trên vai nặng trĩu đôi thùng nước,
Kĩu kịt đi vào lối cổng tre.

Trong xóm giờ lâu quá nửa đêm,
Tiếng chày giã gạo đã ngừng im.
Trăng tà hạ xuống ngang đầu núi,
Đom đóm bay qua dải nước đen.

Tiếng ốc trên chòi rúc thiết tha,
Gió lay cót két rặng tre già.
Sao trời từng chiếc rơi thành lệ,
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ.

1939

7, Thu

Từng cánh buồm nâu dõi gió về
Sao chiều trong tựa giọt pha lê
Cầu thôn vắng bóng qua dòng biếc
Trời tím hồng trên những ngọn tre

Cụ già lọm khọm trên đồng vắng
Gió thổi bơ phờ mái tóc bông

Tôi thích chiều chiều ra đứng đón
Mùa thu trong tấm áo sương hồng
Nhạn chiều rẽ nước trên hồ gấm
Không khí say như chất rượu nồng

1940

8, Đám Cưới Mùa Xuân

Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng,
Nắng dát vàng trên bãi cỏ non xanh.
Dịp cầu xa lồng bóng nước long lanh,
Đàn cò trắng giăng hàng bay phấp phới.

Trên cành cây, bỗng một con chim gọi
Lũ người đi lí nhí một hàng đen
Trên con đường cát trắng cỏ lam viền
Họ thong thả tiến theo chiều gió thổi,
Dưới bầu trời trong veo không mảy bụi,
Giữa cánh đồng phơn phớt tựa màu nhung.
Một cụ già râu tóc trắng như bông,
Mặc áo đỏ, cầm hương đi trước đám.
Dăm sáu cụ áo mền bông đỏ sẫm,
Quần nâu hồng, chống gậy bước theo sau.
Hàng ô đen thong thả tiến lên sau.
Kế những chiếc mâm đồng che lụa đỏ.
Bọn trai tơ mặt mày coi hớn hở,
Quần lụa chùng, nón dứa áo sa huê.
Một vài bà thanh lịch kiểu nhà quê,
Đầu nón nghệ, tay cầm khăn mặt đỏ.
Bà lão cúi lom khom bên cháu nhỏ,
Túi đựng trầu chăm chăm giữ trong tay.
Thằng bé em mẹ ẵm, má hây hây,
Đầu cạo nhẵn, áo vàng, quần nâu sẫm.
Cô bé để cút chè người xẫm mẫm,
Đi theo bà váy lĩnh, dép quai cong.
Một chị sen đầu đội chiếc khăn hồng,
Đặt trên cái hòm da đen bóng lộng.
Người cô dâu hôm nay coi choáng lộn.
Vành khuyên vàng, áo mớ, nón quai thao.
Các cô bạn bằng tuổi cũng xinh sao,
Hai má thắm, ngây thơ nhìn trời biếc.
Dăm bảy cô phủ mình trong những chiếc
Áo đồng lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh.

Một lúc sau đi tới chỗ vòng quanh,
Nếp chùa trắng in hình trên trời thắm,
Thì cả bọn dần đần cùng khuất lẩn
Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân.
Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng.

1940

9, Anh Tôi

Anh tôi búi tóc dắt trên đầu
Áo ngắn năm mình nhuộm củ nâu
Một áo thâm chùng buông quá gối
Một đôi guốc gộc để đi đâu

Bốn cây thóc cót đứng cao vời
Nồi lớn, mâm đồng mấy chục đôi
Dăm ấm tiền chinh chôn kỹ lưỡng
Vài đôi phản gỗ để ăn ngồi

Gạo đỏ hàng ngày lấy thổi cơm
Cá ao có giỗ mới sùa cơm
Trong chuồng đôi lợn nuôi làm lệ
Gà đẻ nằm trên ngọn đống rơm

1943

10, Làng

Làng tôi: mươi chục nóc nhà tranh
Một ngọn chùa cao, một nóc đình
Một rặng tre già vươn chót vót
Một dòng sông trắng chảy vòng quanh

Thôn tôi: cạnh một chiếc cầu tre
Chiếc miếu con con quạt gió hè
Những buổi trưa nào cao tiếng sáo
Trâu bò nằm nghỉ lắng tai nghe

Vào dạo đầu xuân lá dệt cành
Quanh làng lúa biếc phủ mông mênh
Dừng chân người khách đằng xa ngỡ
Hòn đảo con nào giữa biển xanh

Trăng chìm, tiếng trống đánh vang ngân
Trời đỏ như son đã hiện dần
Tiếng chó sủa luồn qua giậu trúc
Tiếng gà báo sáng gáy trong sân

Cổng xóm sau đêm mở gió đồng
Tiếng xa chim gáy vẳng bên sông
Người làng nhộn nhịp ra đồng sớm
Tiếng nói cười trong ánh nắng hồng

Những tối trăng vàng đỗ ngọn tre
Đèn thôn xa ngọn ánh xanh lè
Tiếng gầu tát nước bên đường cái
Lẫn tiếng ai cười nhí nhảnh đi

Đêm hè giã gạo tiếng chày chân
Trời biếc trăng sao gội xuống trần
Đường ngõ ra vào chen những bóng
Chiếc diều lơ lửng dưới sông Ngân

Ngày mùa kéo lúa dưới trăng khuya
Công việc vừa yên ngủ bốn bề
Sao Nhác lên dần soi lấp lánh
Tiếng gà thức giấc gáy te te

Đông về xếp ải chạy mưa rơi
Người chúi vào nhau nắc nẻ cười
Trẻ nghịch bên chùa vơ lá úa
Vun vào thành đống đốt, reo chơi

Tết: bánh chưng xanh xếp chật nồi
Con Vàng sợ pháo chạy cong đuôi
Cô nào đi lễ khăn vuông mới
Chiếc yếm đào trông đến đẹp tươi

Ngày hội đầu xuân, một ít bà
Bu gà, quả gạo trẩy chùa xa
Đường về về xe sắt nghiêng đôi bánh
Người chất lên nhau ngủ gật gà

Cứ thế, làng tôi tháng lại năm
Sống bên ruộng lúa, cạnh ao đầm
Đời như mặt nước ao tù lắng
Gió lạ không hề thổi gợn tăm

1943

Xem thêm:

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here