Luigi Pirandello (28/06/1867 – 10/12/1936) là nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng, tiêu biểu của Italia đầu thế kỉ XX; ông được trao giải Nobel Văn học năm 1934 vì những tìm tòi táo bạo và thành công trong nghệ thuật ngôn từ và sân khấu – mà đặc biệt nổi bật nhất, như nhiều nhà phê bình nhận xét, là khả năng kì diệu biết làm “một phân tích tâm lí thành một vở kịch hay”.

Tiểu sử Luigi Pirandello
Luigi Pirandello là con thứ hai trong số sáu người con của một gia đình tư sản chủ mỏ lưu huỳnh. Tài năng văn học của ông bộc lộ khá sớm. Khi còn học phổ thông, L. Pirandello đã làm thơ và viết một vở bi kịch có nhan đề Barbaro (về sau bị thất lạc). Năm 1887, ông vào học ngành ngữ văn ở Đại học Palermo và Roma. Không hài lòng với trình độ giảng dạy ở đây, ông chuyển sang Bonn học và nhận chứng chỉ tốt nghiệp vào năm 1891. Năm 1889, ông xuất bản tập thơ đầu tiên Nỗi đau sung sướng. Trở về Roma năm 1892, L. Pirandello cộng tác với các tạp chí văn học và công bố nhiều tập thơ, trong đó có Những bi ca trên sông Rein. Năm 1894, ông kết hôn với Maria Antonietta Portulano. Năm 1898, ông bắt đầu viết kịch và đứng ra thành lập hẳn một đoàn kịch. Từ năm 1897 đến 1922, L. Pirandello giảng dạy mĩ học và văn học ở Viện Magistere Femminile tại Roma. Năm 1901, ông xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Người đàn bà bị ruồng bỏ. Năm 1903, gia đình phá sản vì lụt phá sập hầm mỏ, vợ mắc bệnh tâm thần nặng, nhưng ông vẫn tiếp tục sáng tác; cuốn tiểu thuyết thứ ba Mittia Pascal quá cố (1904) đã mang lại cho L. Pirandello thành công lớn. Từ năm 1915, ông gần như dành toàn bộ thời gian cho sáng tác kịch (trong 6 năm 1915-1921 ông viết 16 vở kịch và tất cả đều được trình diễn). Các tác phẩm của L. Pirandello mang khuynh hướng duy thực, đi sâu vào tâm lí, miêu tả nỗi đau khổ của con người. Vở kịch Sáu nhân vật đi tìm tác giả viết năm 1921 thực sự tạo cú thúc quyết định cho sự phát triển của sân khấu hiện đại. Tên tuổi của L. Pirandello không chỉ được biết đến ở Italia mà ở toàn châu Âu. Năm 1924, ông gia nhập đảng phát xít và với sự giúp đỡ của Mussolini đã sáng lập và trở thành giám đốc Nhà hát Nghệ thuật Quốc gia. Năm 1926, ông viết xong tiểu thuyết cuối cùng Một, không có một và mười vạn. Năm 1928, nhà hát của ông phải đóng cửa vì lí do tài chính. Những năm sau đó, L. Pirandello đi du lịch và sống nhiều ở nước ngoài. Năm 1934, ông nhận Giải Nobel và đọc một bài diễn văn ngắn, trong đó đề cao thái độ thành thực ngưỡng mộ cuộc sống của mỗi nhà văn, theo ông, đó là điều quyết định cho sự nghiệp của mỗi người.
Pirandello mất tại Roma; theo nguyện vọng riêng, nhà văn được chôn cất lặng lẽ tại quê nhà Sicile không nghi lễ tang điếu. Một số vở kịch và nhiều truyện ngắn của ông đã được dịch sang tiếng Việt.
Đánh giá của Viện Hàn lâm Thụy Điển(1):

Sự nghiệp sáng tác của Luigi Pirandello rất rộng lớn. Với tư cách tác giả viết novellas (truyện ngắn), chắc chắn không ai có thể sánh cùng ông về sức viết, thậm chí ngay ở đất nước khai sinh ra thể loại văn học này. Nếu như tập Decameron của Boccaccio gồm 100 novellas thì trong tập Novelle per un anno của Pirandello (1922-1937) mỗi ngày trong năm ông đều có một truyện. Chúng hết sức đa dạng về chủ đề cũng như về nhân vật: lối mô tả cuộc sống của ông khi thì thuần túy hiện thực, khi thì mang ý nghĩa triết lí uyên thâm hoặc chứa đựng đầy nghịch lí, và thường được thể hiện bằng một ngòi bút châm biếm hay trào phúng. Đồng thời ông cũng có nhiều sáng tạo trong lối viết đầy sức tưởng tượng giàu chất thơ mà ở đó yêu cầu về hiện thực nhường chỗ cho lí tưởng và chân lí sáng tạo.
Nét chung trong tất cả những novellas này là tính ngẫu hứng không cần dụng công, nên chúng tràn trề tính tự nhiên, nhiệt huyết và sức sống. Song, vì khuôn khổ hạn chế của novellas đòi hỏi một kết cấu đặc biệt chặt chẽ, chúng ta cũng thấy được hậu quả của sự ngẫu hứng. Trong khi nóng lòng xử lí các chủ đề sáng tạo, Pirandello có thể đánh mất sự kiểm soát, không còn bận tâm đến ấn tượng chung nữa. Mặc dù novellas của Pirandello rất độc đáo, chúng khó lòng thể hiện được hết được nghệ thuật hoàn thiện của ông. Điều này thật hiển nhiên nếu ta lưu ý rằng nhiều chủ đề sẽ được sử dụng cho các tác phẩm sân khấu của ông sau này.
Tiểu thuyết cũng không phải là đỉnh cao trong thành tựu văn học của ông. Mặc dù các tiểu thuyết ở giai đoạn đầu cũng thấm nhuần những ý tưởng mà với chúng ông đã góp phần cống hiến vô cùng độc đáo của mình cho sân khấu hiện đại, những hình thức hoàn thiện nhất của các ý tưởng đó, ông chỉ dành cho sân khấu.
Trong khuôn khổ cho phép của một bài đánh giá sơ lược ở đây, chúng ta chỉ có thể đề cập đến một trong nhiều quyển tiểu thuyết mà ở đó một đặc trưng riêng biệt trong quan niệm của ông về thời đại chúng ta, nỗi khiếp sợ và ghê tởm đối với chủ nghĩa vật chất đang làm cơ giới hóa cuộc sống chúng ta, được ông thể hiện một cách mãnh liệt nhất. Tiểu thuyết Bấm máy (Si gira, 1916), tiêu đề được đặt theo một thuật ngữ của ngành điện ảnh, “Bấm máy lần một”, hiệu lệnh để thông báo cho các diễn viên biết rằng cảnh quay bắt đầu. Người kể chuyện là người “Bấm máy”, tức người quay phim trong một xưởng phim lớn. Anh ta tìm thấy một ý nghĩa đặc biệt trong nghề của mình. Với anh ta, cuộc sống cùng với tất cả cái xấu và cái tốt của nó được qui về vật liệu của những hình ảnh được sản xuất một cách máy móc cho những khoảng thời gian tiêu khiển; ngoài ra, nó không còn mục đích nào khác. Máy quay phim trở thành con quái vật nuốt chửng mọi thứ và trải nó ra trong cuộn phim, bằng cách đó đưa ra một diện mạo bên ngoài của hiện thực, một diện mạo mà về cơ bản là cái chết của tinh thần, sự trống rỗng của tâm hồn. Sự tồn tại của chúng ta hiện nay lặp đi lặp lại và vận hành cũng với tốc độ vô hồn như thế, nó hoàn toàn máy móc, như đã bị tàn phá, bị hủy diệt. Thái độ của tác giả được diễn tả hết sức mạnh mẽ. Chỉ riêng cốt truyện đã có sức công phá thật ghê gớm.
Đó là nét chung về những vở kịch của Pirandello, hầu hết được giới hạn xung quanh những vấn đề tâm lí thuần túy. Nỗi đắng cay của kỉ nguyên hiện tại đã ảnh hưởng rất nhiều đến những triết lí bi quan trong các vở kịch, ngay cả khi những triết lí này dựa vào bản tính tự nhiên của tác giả.
Maschere Nude (1918-1921) là tiêu đề mà ông đặt cho tuyển tập kịch của mình, rất khó dịch bởi tính đa nghĩa của nó. Theo nghĩa đen, ta có thể dịch là “Mặt nạ phơi trần“, nhưng “mặt nạ” thường chỉ biểu thị bề mặt. Còn trong trường hợp này, từ này được sử dụng để chỉ việc cải trang, che giấu kẻ này trước kẻ khác và trước chính bản thân mình, sự cải trang mà với Pirandello có ý nghĩa là dạng thức bề mặt với một bản ngã khôn dò ẩn sau nó. Những chiếc mặt nạ “trùm kín”, bị phân tích và tiêu hủy bởi sự sáng rõ thấu suốt: Trong kịch của ông, đó chính là sự lột tả chân dung của nhân loại – con người bị lột mặt nạ. Tiêu đề của ông hàm nghĩa như thế.
Đặc điểm nổi bật nhất trong nghệ thuật của Pirandello là sức mạnh gần như thần kì của ông trong việc biến những phân tích tâm lí thành những vở kịch tuyệt vời. Thường thì sân khấu đòi hỏi có những mẫu người. Ở đây thì tinh thần giống như một cái bóng, tối tăm ẩn sau tăm tối, và không ai dám quả quyết ở bên trong cái gì gần với cốt lõi hơn. Rốt cuộc thì có vắt óc ra người ta cũng chẳng rõ, bởi thực ra chẳng có gì là cốt lõi cả. Mọi thứ đều tương đối, chẳng có gì ta có thể nắm bắt tuyệt đối, thế nhưng các vở kịch đôi khi lại có thể thu hút, làm mê hoặc và quyến rũ thậm chí đông đảo công chúng khắp nơi trên thế giới. Kết quả này hoàn toàn là một nghịch lí. Vì, theo chính tác giả giải thích, nó phụ thuộc vào thực tế là tác phẩm của ông “sinh ra từ những hình ảnh của cuộc sống đã được đi qua một bộ lọc ý tưởng và hoàn toàn nắm giữ, chiếm ngự”. Cơ sở của các vở kịch chính là hình ảnh, chứ không phải, như một số người nghĩ, là ý tưởng trừu tượng được ngụy trang bằng hình ảnh.
Có người nói Pirandello chỉ có một tư tưởng “duy nhất”, đó là bản chất ảo tưởng của nhân vật, của cái Tôi. Nhận định này có thể dễ dàng kiểm chứng. Quả thực, tác giả bị ám ảnh bởi tư tưởng đó. Tuy vậy, thậm chí nếu tư tưởng này được mở rộng tới cả tính tương đối của tất thảy những gì mà con người tin mình thấy và hiểu, nhận xét trên là không công bằng.
Trước hết, nghệ thuật kịch của Pirandello không phá vỡ những khuynh hướng văn chương chung. Ông xử lí những vấn đề xã hội và đạo đức, sự xung đột giữa quan hệ cha mẹ và cấu trúc xã hội với những quan điểm cứng nhắc về danh dự và khuôn phép, những khó khăn khi cái thiện của con người phải tự bảo vệ chống lại cái ác đối nghịch trong chính con người. Tất cả những điều này được thể hiện trong những tình huống phức tạp cả về đạo lí lẫn logic, và kết thúc thì lúc thành lúc bại. Những vấn đề này có sự song hành tự nhiên trong việc phân tích cái “Tôi” của các nhân vật, những kẻ cũng có tính tương đối chẳng khác gì các tư tưởng mà họ đang tranh đấu chống lại.
Trong một số vở kịch của ông, chính cách nhìn của kẻ khác về một nhân vật và hậu quả của chúng trở thành chủ đề chính của tác phẩm. Kẻ khác chỉ biết về chúng ta như chúng ta biết về họ: bao giờ cũng không hoàn chỉnh; thế mà, chúng ta lại đưa ra những đánh giá chung quyết. Chính dưới áp lực của dư luận những lời đánh giá này, lương tâm của một con người có thể bị thay đổi. Trong tác phẩm Vì sự tốt lành (Tutto per bene, 1920), diễn biến tâm lí này được dẫn tới kết cục của nó. Trong tác phẩm Mặc quần áo cho kẻ ở trần (Vestire gli ignudi, 1923), mô típ này bị đảo ngược và mang một tính chất bi kịch xúc động. Một cuộc đời bị đánh mất, một cái Tôi không còn tìm thấy gì trong chính bản thân mình, muốn tìm đến cái chết, song, hoàn toàn quay lưng với thế giới bên ngoài, lại có một ước nguyện thống thiết cuối cùng là có được một tấm vải liệm tử tế trong ý nghĩ tốt đẹp của những người khác về sự tồn tại của mình. Trong vở kịch hấp dẫn này, ngay cả sự nói dối, bằng nỗi thống khổ của nó, cũng có vẻ như một kiểu ngây thơ.
Nhưng tác giả không dừng ở đó. Một vài vở kịch của ông đề cập đến sự dối trá trong cái thế giới tương đối này và đánh giá, với một logic thấu suốt, những mức độ tội ác của sự dối trá đó. Trong Cuộc sống ta trao cho con (La vita che ti diedi, 1924), quyền về những điều không thực được biểu hiện bằng một hình thức lớn lao và đẹp đẽ. Một người đàn bà, vừa mất đứa con trai duy nhất, không còn gì có thể níu kéo bà lại cuộc đời này nữa. Thế nhưng một trận cuồng phong đã thức tỉnh trong bà sức mạnh xua tan cái chết như ánh sáng xua tan màn đêm. Tất cả trở nên những ảo ảnh; bà cảm thấy không chỉ bản thân mình mà là tất cả những gì hiện hữu chỉ là sản phẩm mộng ảo mà thôi. Sâu thẳm trong tim mình, bà gìn giữ những kỉ niệm và những giấc mơ, giờ đây những kỉ niệm và những giấc mơ hóa ra mạnh hơn tất cả. Đứa con trai đã được bà ban cho sự sống, đứa con luôn luôn ngự trị trong tâm hồn bà, vẫn luôn luôn ngự trị ở đó. Không có một khoảng trống nào, kí ức về người con trai không thể xóa nhòa. Anh vẫn mãi tồn tại trong bà, dưới dạng thức mà bà không thể nắm bắt được. Bà cảm thấy anh cũng một cách sâu sắc như cảm thấy bất cứ cái gì khác. Như vậy, tính tương đối của chân lí mang hình hài của một bí ẩn giản dị và cao cả.
Tính tương đối này cũng xuất hiện như một bí ẩn trong Thế đấy (nếu bạn thấy vậy) (Così é (se vipare), 1918). Vở kịch được gọi là một truyện ngụ ngôn, nghĩa là ta sẽ không kì vọng cốt truyện lạ lùng của nó xảy ra trong thực tế. Câu chuyện cường điệu và được xếp đặt một cách tài tình mang trong nó những điều hết sức uyên thâm. Các tình huống của một gia đình mới đến định cư ở một tỉnh lị trở nên không thể chịu được đối với cư dân của thị trấn. Trong số ba thành viên của gia đình, người chồng, người vợ và bà mẹ vợ, người chồng hoặc bà mẹ vợ, mỗi người đều có lí riêng, phải được xem như bị ám ảnh bởi những ý tưởng phi lí về tính cách người vợ. Người nói lời cuối cùng luôn là người có tiếng nói quyết định về vấn đề, nhưng sự so sánh những tuyên bố mâu thuẫn luôn để ngỏ cho sự ngờ vực. Những câu hỏi và sự đối lập của hai nhân vật được miêu tả với kịch tính cao độ và một sự hiểu biết tinh tế về những căn bệnh tinh vi nhất của tâm hồn. Người vợ lẽ ra có thể tìm được câu trả lời, nhưng khi xuất hiện, cô giống như một nữ thần trí tuệ và nói năng bí hiểm; đối với mỗi người khác, cô thể hiện cái [nhân cách] mà cô phải là, để người đó tiếp tục lưu giữ hình ảnh [của riêng người đó] về cô. Trên thực tế, cô là biểu tượng của chân lí mà không ai có thể nắm bắt trọn vẹn.
Vở kịch cũng là một sự châm biếm sâu cay về tính tò mò cũng như sự thông thái rởm của con người; trong đó Pirandello đưa ra một bản liệt kê những hình mẫu và vạch trần tính tự phụ sâu sắc, ít nhiều hoặc hoàn toàn lố bịch, ở những kẻ cố công phát hiện chân lí. Toàn bộ vở kịch xứng đáng là một kiệt tác.
Tuy nhiên, vấn đề trung tâm trong sự nghiệp sáng tác kịch của tác giả là phân tích cái Tôi – sự hòa tan của nó vào các yếu tố trái ngược, sự phủ nhận tính thống nhất đầy ảo tưởng của nó, và sự mô tả mang tính biểu tượng trong Maschere nude. Nhờ đầu óc sáng tạo không cạn kiệt, Pirandello tấn công vấn đề từ rất nhiều phía khác nhau, một số vấn đề đã được đề cập tới ở đoạn trên.
Bằng cách lắng nghe thanh âm sâu xa của sự điên rồ, ông đã có những phát hiện quan trọng. Trong vở bi kịch Enrico Đệ Tứ (Enrico IV, 1922), ấn tượng mạnh mẽ nhất là từ cuộc đấu tranh của nhân vật để tìm ra bản ngã trong dòng chảy bất tận của thời gian. Trong Luật chơi (Il giuoco delle parti, 1919), Pirandello đã sáng tạo một vở kịch thuần túy trừu tượng: ông sử dụng những ý niệm nhân tạo về bổn phận – mà mọi thành viên trong xã hội đều chịu chi phối do áp lực của truyền thống – với logic quyết đoán cho một hành động hoàn toàn trái dự đoán. Giống như khi chiếc gậy thần được vung lên, trò chơi trừu tượng sẽ lấp đầy sân khấu với một sự sống cực kì quyến rũ.
Sáu nhân vật đi tìm tác giả (Sei Personaggi in cerca d’autore, 1921) là một trò chơi tương tự như trò chơi được mô tả ở trên, nhưng đồng thời lại rất khác; nó vừa rất nghiêm túc, sâu sắc vừa đầy hàm ý. Cái thống trị ở đây là trí tưởng tượng sáng tạo không giới hạn chứ không phải là tính trừu tượng. Nó thực sự là một vở kịch của sáng tạo thơ; nó cũng là sự hòa giải giữa sân khấu và sự thật, giữa ngoại hiện và thực tại. Hơn nữa, nó còn là một thông điệp nửa thất vọng của nghệ thuật gửi đến tâm hồn của một thời đại bị tàn phá, của những cảnh phiến đoạn đầy căm giận và dễ bùng nổ. Cơn lũ của cảm xúc dữ dội và trí tuệ siêu việt, rất giàu chất thơ này, thực sự là nguồn cảm hứng của thiên tài. Sự thành công của vở kịch ở khắp nơi trên thế giới chứng tỏ rằng nó được đồng cảm ở một mức độ nào đó, nhưng đây là điều hết sức khác thường, chẳng khác gì chính bản thân vở kịch. Không cần thiết và cũng không có đủ thời gian lúc này để nhắc lại những chi tiết kì diệu khiến người xem sửng sốt.
Tâm lí hoài nghi mà Pirandello đã dựa vào để xây dựng những tác phẩm xuất sắc của mình thực sự là tiêu cực. Nếu nó được đông đảo công chúng đón nhận một cách cả tin, giống như khi người ta cả tin tiếp nhận những tư tưởng mới và táo bạo, thì nó cũng kéo theo một số nguy cơ. Nhưng điều này sẽ không xảy ra. Nó tự áp dụng cho một địa giới thuần túy tri thức và công chúng đông đảo hiếm khi đi theo nó tới địa giới đó. Nếu tình cờ, một ai đó bị thuyết phục rằng cái Tôi của y chỉ là một sự hư ảo, y sẽ nhanh chóng tin chắc rằng trên thực tế cái Tôi ở một mức độ nào đó vẫn là hiện thực. Cũng như tính tự do của ý chí, dẫu không thể chứng minh, vẫn không ngừng có thể thấy rõ qua trải nghiệm, cái Tôi sẽ tìm ra cách để buộc người ta nhớ đến nó. Những cách đó thô thiển hoặc tinh tế. Nhưng có lẽ cách tinh tế nhất hàm chứa trong chính năng lực của tư tưởng; cái tư tưởng mà, bên cạnh những tư tưởng khác, muốn hủy diệt cái “Tôi”.
Nhưng công trình phân tích của nhà văn xuất chúng này vẫn giữ nguyên giá trị, đặc biệt nếu so sánh với những tác phẩm khác thời nay. Phân tích tâm lí đem đến cho chúng ta những hệ thống phức hợp, tạo nên sự thú vị và niềm vui to lớn. Chúng thậm chí được tôn kính như những vật thờ bởi những đầu óc rõ ràng là sùng đạo. Sự tôn sùng ấu trĩ! Đối với một người có trí tưởng tượng về hình ảnh, chúng giống như tảo biển luẩn quẩn trong lòng nước. Lũ cá nhỏ luợn lờ quanh những đám tảo này và suy ngẫm, cho đến khi rốt cuộc đầu óc chúng sáng ra, chúng sẽ lặn vào trong đó và biến mất. Chủ nghĩa hoài nghi của Pirandello bảo vệ chúng ta khởi những cuộc phiêu lưu như vậy. Hơn thế nữa, ông có thể giúp đỡ chúng ta. Ông cảnh báo chúng ta không nên chạm đến lớp mô tinh tế của tâm hồn con người theo lối giáo điều thô thiển và mù quáng.
Là một nhà đạo đức, Pirandello không mâu thuẫn mà cũng không tiêu cực. Thiện vẫn thiện, và ác vẫn ác. Một nhân loại cao quý kiểu cổ điển ngự trị ý tưởng của ông về thế giới con người. Sự bi quan cay đắng không thể dập tắt chủ nghĩa lí tưởng trong ông. Khả năng phân tích sâu sắc không thể cắt lìa cội rễ của cuộc sống. Trong thế giới tưởng tượng của ông, hạnh phúc không nhiều, nhưng vẫn có đủ bầu không khí để thở cho những gì đem lại phẩm giá cho đời.
Thưa tiến sĩ Pirandello, nhiệm vụ của tôi, nhiệm vụ trình bày một cách ngắn gọn, súc tích sự nghiệp văn học sâu sắc của Ngài, thật là khó khăn. Mặc dù một phác thảo ngắn gọn dạng đó là không tương xứng, nhưng tôi đã thực hiện trọng trách của mình với niềm vui sướng lớn lao.
Xin cho phép tôi được mời Ngài lên nhận từ tay Đức Vua giải thưởng Nobel Văn học mà Viện Hàn lâm Thụy Điển thấy rằng Ngài rất xứng đáng được nhận.
* Diễn từ(2):

Tôi rất vui mừng được bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc vì sự có mặt của Đức Vua và Hoàng hậu trong bữa tiệc này. Tôi xin được cảm ơn quý vị đã dành cho tôi sự tiếp đón nồng hậu, trước đây cũng như trong buổi tối hôm nay, buổi tối có thể coi như phần kết xứng đáng của buổi lễ trang trọng ban sáng, khi tôi vô cùng hân hạnh được nhận Giải Nobel Văn học năm 1934 từ tay Đức Vua kính mến.
Tôi cũng mong muốn bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn chân thành tới Viện Hàn lâm Thụy Điển vì sự phán xét công minh đã trao vương miện cho sự nghiệp văn học lâu dài của tôi.
Để có thành công trong nỗ lực văn chương, tôi đã phải trải qua trường học cuộc đời. Trường học đó, mặc dù đối với những bộ óc xuất chúng là vô ích, lại là thứ duy nhất giúp mở mang trí tuệ cho những người như tôi: chăm chỉ, tập trung, kiên nhẫn, ban đầu như một đứa trẻ thật sự, một học sinh dễ bảo, nếu như không phải của các thầy cô giáo, ít nhất cũng là của cuộc đời, một học sinh không bao giờ từ bỏ niềm tin trọn vẹn vào những điều nó học được. Niềm tin này ngự trị trong tính giản dị của bản tính tôi. Tôi cảm thấy cần phải tin vào cái bề ngoài của cuộc sống, không mảy may nghi ngờ hay do dự.
Chính sự chăm chỉ không ngừng và sự chân thành sâu sắc của tôi khi học và suy xét bài học này đã làm bộc lộ đức tính khiêm nhường, một tình yêu và sự tôn trọng cuộc sống không thể thiếu để giúp ta vượt qua nỗi cay đắng vì vỡ mộng, những kinh nghiệm đau đớn, những vết thương khủng khiếp và tất cả những lỗi lầm của sự ngây thơ đem lại chiều sâu và giá trị cho trải nghiệm của chúng ta. Sự giáo dục tinh thần mà tôi đã phải trả giá rất đắt này đã cho phép tôi lớn lên mà vẫn giữ được là mình.
Khi những tài năng thực sự trong tôi đã phát triển, chúng làm tôi hoàn toàn mất khả năng sống; khi trở thành một nghệ sĩ thực thụ, người ta chỉ còn khả năng suy nghĩ và cảm xúc; suy nghĩ, bởi vì ta cảm xúc, và cảm xúc bởi vì ta suy nghĩ. Trên thực tế, với ảo tưởng sáng tạo chính mình, tôi chỉ sáng tạo ra cái mà tôi đã cảm nhận được và có thể tin.
Tôi vô cùng sung sướng, tự hào và biết ơn khi nghĩ rằng sự sáng tạo của tôi đã được quý vị đánh giá là xứng đáng để được trao giải thưởng cao quý này.
Tôi vui sướng tin tưởng rằng giải thưởng này được trao không phải cho trình độ điêu luyện của một nhà văn, thứ luôn luôn không đáng kể, mà là cho sự chân thực con người trong sáng tác của tôi.
Tác phẩm của Luigi Pirandello đã dịch ra tiếng Việt(3):
– Mattia Pascal Quá Cố
Đang có cuộc sống khốn đốn ở tỉnh lẻ, một ngày kia Mattia Pascal bỗng phát hiện ra rằng mình được cho là đã chết. Anh nghĩ rằng đây chính là dịp để rũ bỏ ràng buộc cơm áo gạo tiền thường nhật, cơ hội để thoát khỏi số phận tầm thường của mình. Anh đến một thành phố mới, với một cái tên mới, một ngoại hình mới, một cuộc sống mới.
* Các tác phẩm đã dịch khác:
– Những bổn phận, Trịnh Đình Hùng dịch, in trong Truyện ngắn thế giới chọn lọc (tập 2), Nxb Tác phẩm mới, 1985.
– Anh chồng của vợ tôi (tập truyện ngắn), Quỳnh Dung dịch, Nxb Tác phẩm mới, 1989.
– Cuộc báo thù con chó, Hoàng Hải dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Văn học, 1997.
– Đóm đóm của tình yêu (tập truyện ngắn), Hoàng Hải – Trần Sơn dịch, Nxb Văn học, 1998.
– Chiến tranh, Ngô Bích Thu dịch, in trong Đôi mắt lụa, Nxb Văn học, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Văn học, 1999.
– Cam chanh Xixilơ, Hoàng Hải dịch; Giải phóng vua gà, Trần Sơn – Hoàng Hải dịch; In corpore vili, Trần Sơn dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Văn học, 1999.
– Viên ngọc gia bảo, Phạm Huy Kỳ dịch, Nxb Văn nghệ TP.HCM, 2003.
– Anh chồng của vợ tôi, Vũ Đình Phòng dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc – tác giả đoạt Giải Nobel, NXB Hội Nhà văn, 1989, 1999; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, NXB Hội Nhà văn, 2004.
– Đêm tân hôn, Quỳnh Dung dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NXB Quân đội Nhân dân, 1998; Tuyển tập truyện ngắn thế giới chọn lọc, Nxb Văn học, 1998; Truyện ngắn lãng mạn Italia, Nxb Lao động, 2002.
– Vòng hoa, Hoàng Hải dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Văn học, 1997; Tuyển tập truyện ngắn thế giới chọn lọc, Nxb Văn học, 1998; Những chuyện tình thơ mộng, NXB Hội Nhà văn, 2000.
– Hơi thổi, Tấm khăn choàng màu đen, Vũ Đình Phòng dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc – tác giả đoạt Giải Nobel, NXB Hội Nhà văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel năm 2004.
– Vị Thượng đế già nua, N.T.Q.H dịch; Anh chồng của vợ tôi, Lê Sơn dịch, in trong Truyện ngắn lãng mạn Italia, Nxb Lao động, 2002.
– Chuyến viễn du, Vũ Đình Phòng dịch, in trong Truyện ngắn hay thế giới, Nxb Thanh Hóa, 2004.
– Chiếc khuy áo khoác, Nữ thần sống khỏa thân, Vũ Đình Phòng dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, NXB Hội Nhà văn, 2004.
– Hãy suy nghĩ đi, Giacôminô, Quỳnh Dung dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt Giải Nobel, Nxb Văn học, 1997; Truyện ngắn đặc sắc các tác giả được giải thưởng Nobel, Nxb Văn học, 2004.
Vũ Thị Vân Anh, Tân Đôn dịch từ bản tiếng Anh
Trần Tiễn Cao Đăng hiệu đính
(Nguồn: http://nobelprize.org)
© Culture Globe
Ghi chú:
(1) Do Per Hallstrum, Thư kí thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển đọc.
(2) L. Pirandello đọc trong tiệc chiêu đãi giải thưởng Nobel ngày 10/12/1934 tại Tòa Thị chính Stockholm.
(3) Số truyện ngắn của L. Pirandello được dịch sang tiếng Việt in rải rác trên báo và các tập sách khá nhiều, ở đây chúng tôi chỉ ghi lại một số trong các tập sách quen thuộc.
Xem thêm: Bernard Shaw, nhà cách tân sân khấu lớn của thế kỉ XX